Gió cao nguyên thổi vi vu và dòng suối uốn quanh chảy róc rách trước sự tịch tỉnh của núi rừng. Liên và tôi sau giờ công phu sáng, yên lặng ngồi bên nhau trong căn lều rơm hình bát giác ở lưng chừng đồi, cạnh con đường mòn dẫn lên rừng thông trên đỉnh. Mỗi người đang theo dõi ý nghĩ riêng...Bên kia trời là khoảng không gian thênh thang bát ngát. Đẹp làm sao với những dãy núi đồi chập chùng, tạo thành vòng đai bao cả nửa chân trời, được phủ trên đầu một thảm lụa trắng chạy dài, với những áng mây bồng bềnh. Cả đỉnh đồi mờ trong khói sương hư ảo, khi bình minh chưa ló dạng.
Đôi bạn quen nhau từ dạo đi Phật thất chùa Hoằng Pháp . Liên trạc độ hơn hai mươi, vừa xong đại học, với làn da trắng muốt, nổi bậc trên gương mặt thông minh thanh tú. Tôi đùa gọi cô bé là cò con, vì đi tu Phật thất mỗi ngày cô tắm đến năm lần! Lần đầu tiên gặp tôi, Liên hỏi:
- Sao chị đi tu Phật thất vậy?
Đôi bạn quen nhau từ dạo đi Phật thất chùa Hoằng Pháp . Liên trạc độ hơn hai mươi, vừa xong đại học, với làn da trắng muốt, nổi bậc trên gương mặt thông minh thanh tú. Tôi đùa gọi cô bé là cò con, vì đi tu Phật thất mỗi ngày cô tắm đến năm lần! Lần đầu tiên gặp tôi, Liên hỏi:
- Sao chị đi tu Phật thất vậy?
Tôi đáp:
-Thích nghe các thầy giảng pháp, và tập tìm cái tịnh trong cái động nơi đông đảo người. Còn em , sao còn nhỏ mà thích đi tu hay vậy?
Liên nói gọn trong chua xót:
-Đau khổ vì tình. Đến đây để lắng lòng thanh tịnh.
Câu nói khiến tôi nhìn kỷ Liên hơn. Cô bé khá đẹp, có dáng dấp con nhà tiểu thơ đài các. Sau một thời gian, Liên tâm sự..., Liên yêu lầm lạc một anh chàng ong bướm, thích trăng hoa với quá nhiều người. Trái tim Liên tan nát nên đã tự tử, may mắn được cứu sống. Mặc dù với bao lời khuyên nhũ của mọi người, nào là chữ hiếu với cha mẹ, nào là sự không xứng đáng của đối tượng yêu, nào là tội lỗi khi tự giết mình sẻ không được siêu thoát...Nhưng có lẽ oan trái đã tạo từ đời trước quá nặng, nên Liên cứ đâm đầu vào, và không dứt khoát nổi mối tình, dù chết đi sống lại, Liên vẫn đau khổ không còn muốn sống!
Nghe qua tôi không nói nên lời, lặng lẽ vuốt tóc Liên trong chia sẽ và tự hỏi: “làm sao giúp cô bé nầy?"
Liên có khá nhiều đức tính của con nhà có giáo dục: chân thật, không điêu ngoa trong lời nói và giữ chữ tín. Đó là điểm khó tìm của những người tuổi trẻ mà tôi đã gặp.
Liên đứng dậy đi quanh lều, co duỗi tứ chi , khiến tôi trở về thực tại. Cô lên tiếng:
- Cảnh trí ở đây đẹp quá chị nhỉ, chị dẫn em lên đây chơi thật thích. Có lần buồn em định đi tu, nhưng đi Phật thất mới biết, tu đâu phải dễ. Ba giờ rưỡi sáng đã dậy, không được ăn và nằm phi thời, giờ giấc theo thời khóa. Có trải qua mới biết thương người tu chị ạ. Nội việc cạo cái đầu, mặc áo người tu đã là khó với mình rồi. Vậy mà các thầy của chùa Hoằng Pháp, trẻ tuổi, đẹp trai đi tu hay thiệt!
Tôi nói:
- Đúng vậy em ạ, cho nên lúc nào mình cũng phải ủng hộ sự phát Bồ đề tâm của người tu bằng mọi hình thức. Ngoài việc khổ hạnh, kỷ luật giờ giấc, học kinh chú và Phật pháp; điều quan trọng của chữ xuất gia khác chữ xuất giá ở chổ, là phải nằm trong khung rào cản giới luật của Phật. Có câu "chiếc áo không làm nên thầy tu" là ý nói về giới luật nầy. Nghe các thầy nói, nếu không giữ giới luật tức làm thân Phật chảy máu đó em ạ. Tu đâu phải dễ, do họ có ý chí kiên cường của sự tìm đường giải thoát, chứ đâu phải cứ buồn chán đời là đi tu được.
Dựa tay lên lan can lều, gương mặt Liên buồn xa xăm nói:
- Từ ngày đi tu Phật thất, em thấy được Phật pháp rất hay, nhưng chưa hiểu thông suốt, chị giúp em được không?.
Tôi đáp:
Tôi đáp:
- Em nên hỏi các thầy thì tốt hơn, vì sự hiểu biết của chị rất giới hạn. Tuy nhiên nếu chị biết điều gì, chị sẽ sẵn lòng.
Liên nói:
Liên nói:
- Phật dạy vạn vật giả có, em lại cứ thấy thật không hà, mình phải làm sao?.
Tôi cười:
- Không phải riêng em, nếu gột rữa dễ dàng, ai nấy đã thành thánh hết rồi, đâu có luân hồi mãi. Em nên tập quán xét thường xuyên về bóng trăng trong thau nước. Sở dĩ có bóng trăng, do vì nhân duyên có nước mà có; một khi đổ nước đi rồi, tức lấy nhân duyên đi, thì bóng trăng mất ngay, đấy là giả có. Vạn pháp trên thế gian nầy cũng giống y như bóng trăng vậy.
- Thân ta sở dĩ có, là do nhiều nhân duyên hợp lại: duyên đất và nước qua ăn uống, duyên không khí giúp hơi thở (gió), duyên mặt trời giúp ấm áp (lửa). Nếu đứt mạch máu tim hay não, hay bị siết cổ không còn không khí để thở..v.v...Tức một trong những nhân duyên bị cắt đứt, lập tức sự "có thân" đó, sẽ trở về "không" ngay, nghĩa là chết. Thì tất cả cái vay mượn lại trả về cho nguồn mượn (đất, nước gió lửa). Cho thấy rõ thân là "giả có" mà thôi. Điều nầy giống như bóng trăng đã bị lấy nhân duyên nước đi rồi, thì bóng trăng mất. Nếu thân có thật tánh riêng, không là của mượn qua các nhân duyên khác, thì thân sống đời đời cố định không chết. Từ đó cho thấy rõ, ngay chính thân mình còn không giữ được, huống hồ những vấn đề phụ thuộc nơi thân như: danh lợi, tiền bạc, nhà cửa, bàn ghế, quyền lực, tình yêu.. v.v và.,v.v…cũng là do nhân duyên mà có, giống y như bóng trăng, hay thân.Tất cả cũng đều là bóng, trôi theo mây khói...
Điển hình như thảm họa của Nhật Bản, trước đó một phút thôi, vạn pháp cái gì cũng thấy "có" rỏ ràng. Nhưng sau đó chỉ hai phút, do nhân duyên sóng thần đến, cắt đứt tất cả mọi nhân duyên khác, nên không còn gì cả! Nếu người hiểu đạo thật sự, luôn sống huân tập trong cái thấy đúng như pháp, không chấp chặt mọi thứ trên đời này là "thật có", nên sự việc hết nhân duyên đến, họ không đau khổ. Nếu em quán điều này thường xuyên, đối với tình yêu, một khi không còn đủ nhân duyên nữa, em sẽ ít tuyệt vọng đau khổ hơn, mà không phải hủy hoại mạng sống.
Nghe xong ánh mắt Liên tươi sáng hơn và lại thắc mắc tiếp:
- Tại sao người ta nói chùa là "cửa không" vậy chị?
Tôi đáp:
- Bởi vì cốt tủy của đạo Phật nói về "tánh không" của vạn vật. Chữ "không" trong đạo Phật có nhiều nghĩa, chị tạm nói ba nghĩa chính:
* Thứ nhất là nghĩa bình thường KHÔNG đối với CÓ: vì người phàm phu thường chấp cái gì cũng thật có, nên Phật dạy pháp tương đối nhân quả, cho người có căn cơ thấp tu, để họ còn được hưởng phước báu của hàng trời - người, tránh điều tội lỗi không lọt vào ba cỏi ác đạo: ngạ quỷ ,súc sanh, địa ngục.
* Thứ nhì là TÁNH KHÔNG: vạn pháp không có tự thể riêng biệt hay cố định. Đây là pháp tuyệt đối cho người có căn cơ cao tu để đạt giải thoát sanh tử.
* Thứ ba là KHÔNG TỊCH LINH TRI: tâm chứng của người đạt đạo. Tùy trí sai biệt (linh tri) còn vướng mắc từng loại lậu hoặc sâu hay cạn, chia ra các cấp bậc giải thoát, từ A-la-hán trở đi, đến Bồ tát và Phật quả.
Nghe đến đây con bé vẫn chưa chịu tha, vẻ mặt đăm chiêu hỏi tiếp:
Nghe đến đây con bé vẫn chưa chịu tha, vẻ mặt đăm chiêu hỏi tiếp:
- Em cám ơn chị, chị nói đến đâu, em có thể hiểu được đến đó. Nhưng "tánh không" là tu ra sao mà được giải thoát vậy chị?
Bị hỏi những câu không đơn giản chút nào, tôi ngại chẳng biết cô ta có thể tiếp thu được bao nhiêu mà trả lời, nhưng nhớ lại cô đang đau khổ cần Phật pháp, nên tôi cũng mặc kệ chìu ý, nhiệt tình trả lời tiếp:
- Câu nầy thật không dễ cho cả kẻ đáp và người nghe. Hai chữ "tánh không" nầy các tôn giáo khác chưa bao giờ nói đến, và là cốt tủy của Phật giáo. Tánh không tức vạn pháp không có tự thể, hay nói cách khác là vạn pháp không có gì là chính nó cả.
Vạn pháp sở dĩ hiện hữu "có", đều phải nhờ qua khâu "nhân duyên" phối hợp. Bởi vì chính nó chẳng phải có, do sự phối hợp tạo, nên chỉ có thể hiện ra :"tạm là có " mà thôi, đạo Phật gọi là " giả tướng". Như sự giải thích tạm có thân ở câu hỏi đầu.
Vạn pháp sở dĩ hiện hữu "không", cũng đều phải nhờ qua khâu "nhân duyên" phối hợp. Bởi chính nó chẳng phải không, do sự phối hợp tạo, nên chỉ có thể hiện ra: "tạm là không" mà thôi.
Điều này nói lên, cả hai "cái có" và "cái không" đều là huyễn ảo của sự chuyển hóa. Vì không có thật tánh cố định như vậy, cho nên nói vạn pháp là "vô ngã" (không có cái tôi, hay không là chính nó).
Trong Tâm kinh dạy “sắc chẳng khác không", nghĩa là cái mà ta gọi là "có" vốn không có tự tánh, chỉ là duyên giả hợp nên nó vốn là "không”. Ví dụ: hoa kết hợp bởi những thứ không là hoa. Do nhân duyên của đất trồng, phân bón, nước, không khí, ánh sáng, người chăm sóc, nên một đóa hoa hình thành, đó là “Không chắng khác sắc”. Sau một thời gian, khi duyên hết, thì đóa hoa kia sẽ héo úa, biến chuyển và trở thành rác, đó là “sắc chẳng khác không”. Lại ví như đá không có tính lửa, nhưng vì nhân duyên của sự va chạm, từ cái không đã sanh ra lửa (sắc). Thế nên, trong chân không có sẵn diệu hữu (cái có vi diệu) bên trong; và trong diệu hữu lại có sẳn chân không bên trong.
Để Liên hiểu rõ, tôi bước ra lều, với tay hái một trái xoài trồng bên cạnh suối đưa cho Liên và nói tiếp:
- Đây là trái xoài, vì hột xoài không có tự tánh cố định, nên nhờ nhân duyên " đất, nước, gió, lửa", hột xoài nảy mầm thành thân cây xoài, và vì thân cây không có tự tính cố định, nên nhờ nhân duyên.....lại cho ra hoa....,rồi chuyển hóa tiếp cho ra trái. Nếu không, hột xoài vĩnh viễn cố định chỉ là hột xoài mà thôi.
- Đây là trái xoài, vì hột xoài không có tự tánh cố định, nên nhờ nhân duyên " đất, nước, gió, lửa", hột xoài nảy mầm thành thân cây xoài, và vì thân cây không có tự tính cố định, nên nhờ nhân duyên.....lại cho ra hoa....,rồi chuyển hóa tiếp cho ra trái. Nếu không, hột xoài vĩnh viễn cố định chỉ là hột xoài mà thôi.
Chính nhờ tánh không đã sanh ra vạn pháp.Cũng như vô minh, không chính là vô minh, không thật có, nên phàm phu có thể tu tiến thành thánh nhân. Nếu không, vô minh lại vĩnh viễn là vô minh. Mọi thứ khác (vạn pháp) có lý luận cũng giống y như thế. Bởi thế, trong kinh Kim cang nói: "cái gọi là chúng sanh, không phải là chúng sanh, nên tạm gọi là chúng sanh".
Người chứng đạo, thấu triệt và sống được với các pháp thế gian trong sự huyễn hóa, chẳng phải có, mà cũng chẳng dính mắc vào không, trong tâm họ không chấp vào cả hai bên đối đãi "có không". Tâm họ không bận tâm khởi ra những sự phân tích so đo của ý thức phân biệt, họ sống trong sự "rỗng lặng tỉnh giác", an nhiên trước lẻ thật của vạn vật đang tồn tại một cách hư dối: đó là trí huệ Bát nhã, là giải thoát. Giải thoát vì họ hiểu được và thực hành được năm uẩn đều là không, nên vượt được hết thảy mọi khổ ách.
Vừa nói đến đây Liên buột miệng đáp:
- Thế thì cái đau khổ, bản chất không thật sự có, do vì tai nạn của tư tưởng đóng khung mình trong đó, cho rằng mình đau khổ, nên mới có đau khổ.
Tôi vổ tay cười lớn:
- Ô hay, chính xác như vậy. Em thật thông minh nhạy bén lắm, nói một thấu suốt hai.
Liên nói:
- Em cám ơn chị rất nhiều, từ nay em sẽ mở mắt, cố gắng dùng trí huệ của Phật pháp phá vô minh của mình. Em sẽ đến chùa học hỏi Phật pháp và làm phật sự. Dùng đời sống của mình làm lợi ích cho tha nhân. Em sẽ có cuộc sống đổi thay chị ạ.
Tôi đáp:
- Em hiểu đươc như vậy là quá tốt. Chị rất mừng cho em. Nhưng khi em đến chùa làm Phật sự, vì hoàn cảnh cha mẹ em có địa vị quá cao trong xã hội, chị sợ em vấp phải một điều. Nếu mình có bất cứ điều gì hơn người về mọi thứ, chẳng hạn như: tài giỏi, danh vọng, giàu đẹp, bằng cấp, quyền lực, thông minh hay địa vị ....đến đâu đi nữa. Tất cả những thứ đó mình nên bỏ ngoài cổng chùa, vì sự tự mãn về trí thế gian hơn người của mình càng cao, thì mình càng u mê với trí huệ Bát nhã càng nhiều, và đã đi ngược chiều với Phật đạo, đó chính là ma vậy.
Liên nói:
- Ý chị nói về chữ DANH trong ngũ dục thế gian "tài, sắc, danh, thực, thùy" phải không?.
Tôi cười:
- Đúng rồi, con người thường bị vướng nhất là chữ danh. Như kỳ rồi quý thầy giảng về Ngài Ngộ Đạt quốc sư, chỉ vì hãnh diện rất vi tế khởi ra trong tâm về chiếc ghế trầm hương của vua ban, mà Ngài bị mất phước, long thần hộ pháp không còn hộ trì nữa. Nỗi oán hận của Triệu Thố đã theo Ngài sát mười đời nhưng không hại được, nên chụp ngay cơ hội đột nhập vào thân Ngài, thành ghẻ mặt người báo thù. May nhờ có vị A la hán gở mối oan khiên. Em thấy rằng, ngay cả một bậc có mười đời làm Hòa thượng, đức độ và đạo hạnh sâu dầy, chỉ vì sơ hở khởi chút danh trong tâm mà bao nhiêu phước đức tu hành còn bị đốt cháy, sụp đỗ.
Và lịch sử của vua Lương Võ Đế cũng thế, vua chỉ mong Tổ Đạt Ma khen Ngài một tiếng "cất chùa, độ Tăng hàng vạn, phước đức thật vĩ đại", nhưng Tổ lại phán: "chẳng phước đức gì cả", để giúp vua chuyển tâm vướng bận vào danh. Vì vua kẹt vào danh của cái tôi mấy chục kí lô, nên phước báu của vua làm chỉ gói gọn nặng trong mấy chục kí mà thôi. Nếu vua hiểu được tánh không và tướng không của kinh Kim cang "phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", thì những "tướng có" nơi bao ngôi chùa vua xây đã không bị dính mắc trong tâm của vua. Bấy giờ phước của vua sẽ vô lượng trùm khắp hư không, bởi lúc đó vua thực hiện được hai chữ “vô trụ" trong kinh: “dù đem cả bảy báu trong tam thiên đại thiên thế giới cúng dường, không bằng trì bốn câu kệ trong kinh". Bốn câu kệ dạy không chấp vào tướng của sự việc mình làm, đó là ý Tổ Đạt Ma muốn dạy vua Lương.
Vì thế , người phàm phu như mình, thường bị chữ danh làm đẩy đi lạc hướng của tâm ban đầu. Thấy gương người xưa, nếu đến chùa, đừng vì háo danh vặt, làm những điều tự mãn, vị kỷ, chẳng được phước đức gì, đôi khi chỉ gây thêm nghiệp đọa lạc là đằng khác đó em ạ.
Liên vui vẻ đáp:
- Vâng, em sẽ cẩn thận nhớ kỹ lời chị nói. Đã lâu lắm rồi, hôm nay là ngày vui nhất của em. Em thương chị quá đi, chị như người chị và cũng như người mẹ của em. Tấm lòng chị lo lắng dẫn em du ngoạn núi, giúp em nguôi ngoai khổ đau, để em sửa sai những lầm lạc của mình, không vì tình yêu mà rồ dại hủy hoại thân mình. Em đã nhận ra cuộc đời đáng sống biết bao, còn quá nhiều thi vị với pháp Phật vi diệu! Ô kìa chị ơi, có tiếng kẻng báo giờ ăn sáng. Thôi chị em mình đi ăn chị nhé, kẻo mọi người đợi. Mình sẽ bàn luận Phật pháp vào dịp khác nữa nha chị.
Đôi bạn cùng nhau xuống dốc đồi, vầng thái dương đã lên cao tự bao giờ và chim đã ra khỏi tổ hót líu lo, thương cho cánh chim không được hưởng pháp lạc như mình! Từng chữ một A DI ĐÀ PHẬT rơi nhẹ, hình dung rõ, vang lên trong tâm thức bằng sự tỉnh sáng, với tánh thấy - tánh nghe - và tánh biết. Mỗi câu Phật hiệu đỉnh đạt, âm thầm, vững chãi từng tiếng một, trong rổng lặng chánh niệm. Mọi ý niệm đã lùi xa vì quá ư hư dối và nhảm nhí, nên không còn chổ đứng. Ôi, mầu nhiệm thay từng bước đi, cả một chân trời hạnh phúc hiện ra trong thanh tịnh.
No comments:
Post a Comment