10 Apr 2012
14 Mar 2012
duc phat hang phuc hoa long

"Đức Phật hàng phục hỏa long"
Trong kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả có thuật lại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệ tử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.
Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bèn hỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Ca diếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngài nghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêm thôi”. Ông Ca diếp bèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia có thể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vào e bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã Nội Thanh Tịnh, Ngọai Tai Bất Nhập”(Bên trong ta thanh tịnh, tai họa bên ngòai không xâm hại được). Xin ông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.
Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơi lạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thì bay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thì cháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửa cháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó: “Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?” Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươi hãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của Đức Phật.
Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúng nhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy y theo Phật.
Trong kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả có thuật lại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệ tử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.
Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bèn hỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Ca diếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngài nghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêm thôi”. Ông Ca diếp bèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia có thể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vào e bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã Nội Thanh Tịnh, Ngọai Tai Bất Nhập”(Bên trong ta thanh tịnh, tai họa bên ngòai không xâm hại được). Xin ông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.
Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơi lạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thì bay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thì cháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửa cháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó: “Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?” Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươi hãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của Đức Phật.
Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúng nhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy y theo Phật.
11 Mar 2012
Ý nghĩa của sự thất bại
Một công ty lớn tuyển mộ nhân sự và số người ứng thí
rất đông. Họ đều có bề dày kinh nghiệm và có bằng cấp, học
vị đáng kính nể. Qua ba vòng thi tuyển
chỉ còn lại 11 người lọt vào vòng cuối cùng cho sáu vị trí quan trọng
của công
ty do chính tổng giám đốc và những nhân
vật cao cấp trong công ty trực tiếp phỏng vấn.
Khi vị tổng giám đốc phát hiện có
đến 12 người tham dự, ông hỏi: “Ai trong số các vị đã không lọt qua các
vòng
tuyển chọn trước đó”?.
“Thưa ông, tôi” - Một chàng trai đứng dậy nói. “Tôi bị loại ngay từ vòng đầu nhưng tôi tin mình có thể trúng tuyển nên vẫn muốn thử sức ở vòng cuối cùng này”.
Mọi người trong phòng đều bật cười, kể cả ông già lo việc trà nước đứng ở phía cửa ra vào. Ông tổng giám đốc vừa ngạc nhiên, vừa tò mò hỏi tiếp: “Anh đã bị loại từ vòng đầu, vậy hôm nay anh tới đây có nghĩa gì”?
“Tôi chỉ tốt nghiệp đại học và là một nhân viên bình thường nhưng tôi có 11 năm kinh nghiệm làm việc và đã từng làm cho 18 công ty khác nhau” - Rất tự tin, chàng trai trả lời.
“Bằng cấp, học lực và chức vụ của anh đều ở mức trung bình. 11 năm kinh nghiệm làm việc tại 18 công ty khác nhau đúng là điều đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên với tư cách là nhà tuyển dụng, chúng tôi không thích điều này”. - Ông tổng giám đốc ngắt lời.
“Thưa ông, tôi không hề chuyển công ty mà tại vì 18 công ty tôi đã từng làm việc đều… phá sản” - Chàng thanh niên vẫn trả lời tỉnh bơ.
Lần này thì cả khán phòng cười ồ. Có tiếng bình phẩm từ phía trên: “Cậu ta đúng là người xui xẻo”. Nhưng chàng trai nói tiếp: “Tôi cho rằng đó mới chính là điểm mạnh của riêng tôi mà không phải ai trong quí vị ở đây cũng có được”.
Cả phòng lại ồn ào lên. Lúc này, ông già phục vụ nước tiến đến bàn chủ tọa và rót nước cho các vị lãnh đạo trong hội đồng giám khảo. Chàng trai tiếp tục:
“Tôi hiểu rất rõ 18 công ty đó bởi tôi đã từng cùng những đồng nghiệp của mình chung lưng đấu cật để kéo chúng khỏi bờ vực phá sản. Tuy không thành nhưng tôi đã học được rất nhiều từ những sai lầm khiến công ty thất bại. Đa số chúng ta thường thích tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm để thành công, nhưng khác với quí vị, tôi chắc chắn có nhiều kinh nghiệm hơn người khác ở chỗ biết làm thế nào để tránh sai lầm và thất bại. Tôi biết chắc những kinh nghiệm để thành công thường có những điểm tương đồng nhưng lý do để dẫn đến thất bại thì luôn khác nhau. Thật sự rất khó biến kinh nghiệm thành công của người khác thành của cải của chính mình, nhưng chúng ta lại rất dễ phạm sai lầm của kẻ khác”.
Nói xong, chàng trai đứng dậy tỏ ý muốn đi ra khỏi phòng. Ông phục vụ già lại chồm lên rót nước cho ông tổng giám đốc. Bất ngờ chàng trai quay đầu lại mỉm cười và nói với ông tổng giám đốc: “11 năm với 18 công ty khác nhau cho phép tôi có sự quan sát và óc phân tích về người và việc. Vì vậy, tôi biết rõ vị giám khảo thật sự của ngày hôm nay không phải là ông mà chính là ông già lao công, phục vụ nước”.
Cả 11 thí sinh trong phòng đều ngạc nhiên nhìn về phía người phục vụ già với ánh mắt hoài nghi. Lúc này, ông già lao công mỉm cười hài lòng và nói: “Rất giỏi! Anh sẽ là người đầu tiên được nhận vào làm việc tại công ty chúng tôi. Ngoài ra, tôi cũng thật sự muốn biết vì sao màn trình diễn của tôi lại có thể bị thất bại nhanh chóng như vậy”
“Thưa ông, tôi” - Một chàng trai đứng dậy nói. “Tôi bị loại ngay từ vòng đầu nhưng tôi tin mình có thể trúng tuyển nên vẫn muốn thử sức ở vòng cuối cùng này”.
Mọi người trong phòng đều bật cười, kể cả ông già lo việc trà nước đứng ở phía cửa ra vào. Ông tổng giám đốc vừa ngạc nhiên, vừa tò mò hỏi tiếp: “Anh đã bị loại từ vòng đầu, vậy hôm nay anh tới đây có nghĩa gì”?
“Tôi chỉ tốt nghiệp đại học và là một nhân viên bình thường nhưng tôi có 11 năm kinh nghiệm làm việc và đã từng làm cho 18 công ty khác nhau” - Rất tự tin, chàng trai trả lời.
“Bằng cấp, học lực và chức vụ của anh đều ở mức trung bình. 11 năm kinh nghiệm làm việc tại 18 công ty khác nhau đúng là điều đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên với tư cách là nhà tuyển dụng, chúng tôi không thích điều này”. - Ông tổng giám đốc ngắt lời.
“Thưa ông, tôi không hề chuyển công ty mà tại vì 18 công ty tôi đã từng làm việc đều… phá sản” - Chàng thanh niên vẫn trả lời tỉnh bơ.
Lần này thì cả khán phòng cười ồ. Có tiếng bình phẩm từ phía trên: “Cậu ta đúng là người xui xẻo”. Nhưng chàng trai nói tiếp: “Tôi cho rằng đó mới chính là điểm mạnh của riêng tôi mà không phải ai trong quí vị ở đây cũng có được”.
Cả phòng lại ồn ào lên. Lúc này, ông già phục vụ nước tiến đến bàn chủ tọa và rót nước cho các vị lãnh đạo trong hội đồng giám khảo. Chàng trai tiếp tục:
“Tôi hiểu rất rõ 18 công ty đó bởi tôi đã từng cùng những đồng nghiệp của mình chung lưng đấu cật để kéo chúng khỏi bờ vực phá sản. Tuy không thành nhưng tôi đã học được rất nhiều từ những sai lầm khiến công ty thất bại. Đa số chúng ta thường thích tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm để thành công, nhưng khác với quí vị, tôi chắc chắn có nhiều kinh nghiệm hơn người khác ở chỗ biết làm thế nào để tránh sai lầm và thất bại. Tôi biết chắc những kinh nghiệm để thành công thường có những điểm tương đồng nhưng lý do để dẫn đến thất bại thì luôn khác nhau. Thật sự rất khó biến kinh nghiệm thành công của người khác thành của cải của chính mình, nhưng chúng ta lại rất dễ phạm sai lầm của kẻ khác”.
Nói xong, chàng trai đứng dậy tỏ ý muốn đi ra khỏi phòng. Ông phục vụ già lại chồm lên rót nước cho ông tổng giám đốc. Bất ngờ chàng trai quay đầu lại mỉm cười và nói với ông tổng giám đốc: “11 năm với 18 công ty khác nhau cho phép tôi có sự quan sát và óc phân tích về người và việc. Vì vậy, tôi biết rõ vị giám khảo thật sự của ngày hôm nay không phải là ông mà chính là ông già lao công, phục vụ nước”.
Cả 11 thí sinh trong phòng đều ngạc nhiên nhìn về phía người phục vụ già với ánh mắt hoài nghi. Lúc này, ông già lao công mỉm cười hài lòng và nói: “Rất giỏi! Anh sẽ là người đầu tiên được nhận vào làm việc tại công ty chúng tôi. Ngoài ra, tôi cũng thật sự muốn biết vì sao màn trình diễn của tôi lại có thể bị thất bại nhanh chóng như vậy”
Giá trị của đau khổ
Một người nuôi trai lấy ngọc luôn suy nghĩ làm thế
nào để tạo được viên ngọc trai tốt nhất, đẹp nhất trên đời.
Ông ra bãi biển để chọn một hạt cát và
hỏi từng hạt cát có muốn biến thành ngọc trai không. Các hạt cát đều lắc
đầu
nguầy nguậy khiến ông sắp tuyệt vọng.
Đúng lúc đó có một hạt cát đồng ý, các hạt cát khác đều giễu nó ngốc, chui đầu vào trong vỏ trai, xa lánh người thân, bạn bè, không thấy ánh mặt trời, trăng sao, gió mát, thậm chí thiếu cả không khí, chỉ có bóng tối, ướt lạnh, cô đơn, rất đau buồn, thử hỏi có đáng không? Nhưng hạt cát vẫn theo người nuôi trai về không một chút oán thán.
Vật đổi sao dời, mấy năm qua đi, hạt cát đã trở thành viên ngọc lung linh, đắt giá, còn những bạn bè chế giễu nó ngốc thì vẫn chỉ là những hạt cát...
Lời bàn:
Nếu nói trên thế gian này có “phép biến đá thành vàng” thì đó là “gian nan và đau khổ”. Những thành quả huy hoàng, sự nghiệp vĩ đại của loài người, đều phải trải qua những vất vả gian nan mới đạt được, đó chính là giá trị của sự đau khổ.
3 Mar 2012
CHỈ CẦN NHÌN LẠI
CHỈ CẦN NHÌN LẠI
Dáng
vẻ rụt rè, anh chào tôi. Hơi bở ngở tôi hỏi anh có việc gì cần tôi
giúp. Anh ấp úng: Thưa Thầy con đến để cảm ơn Thầy. Tôi giúp anh việc gì
mà anh cảm ơn tôi. Anh đã lấy lại được bình tĩnh và vào chuyện: “ Hôm
mồng 08 tháng giêng,âm lịch con có đi chùa, con có vào phòng khách Thầy,
được Thầy tiếp, hôm đó con hơi say, thấy trên bàn làm việc Thầy có một
cái bì thư, ngoài phong bì có dòng chữ
viết tháu CHỈ CẦN NHÌN LẠI , con tò mò lấy bỏ vào túi áo, sau này hỏi
người quen mới biết là chữ Thầy. Từ hôm đó con luôn suy nghĩ về bốn chữ
của Thầy viết.
Nhiều năm trôi qua rồi con không bao giờ nhìn lại,
con cứ nhìn tới, nhìn lên, nhìn xa, nhìn gần, nhìn dáo dác, nhìn lơ
đãng, nhìn chằm chặp, nhìn soi mói, nhìn mà không thấy ( thị nhi bất
kiến ) nhìn quanh quẩn, chứ ít khi nào nhìn lại. Vợ con sống sao mặc,
thiếu đủ gì chẳng hay. Chưa bao giờ con nhìn thẳng vào mặt vợ, không hề
biết vợ đang lo gì, cần gì, sức khoẻ thế nào, tiền bạc có đủ chi tiêu
trong thời buổi gạo châu củi quế này không ? Từ ngữ mà con luôn nhớ
trong ngày: Vô, vô trăm phần trăm anh em ơi ! Cụng ly chúc nhau sức
khoẻ… Con chỉ biết cụng ly chúc nhau sức khoẻ với người dưng, hiếm khi
nào biết chúc sức khoẻ cho vợ cho con mình. Có năm con không biết ngày
08 tháng 03 là ngày gì .
Chiều nay con đi làm về, thấy nhà cửa vắng
tanh, cơm canh chưa có. Con định nổi cáu rồi, thì thằng con nhỏ ba tuổi
chạy lẩm đẩm đến nói:” Bố ơi mẹ ngủ từ trưa không dậy “ .
Con hốt
hoảng chạy tìm vợ, vợ con đang nằm bên cạnh nồi cháo heo dưới bếp, gương
mặt xanh tái, tóc rũ rượi bê bết, hơi thở thật yếu, con hốt hoảng gọi
ta xi đưa đến bệnh viện gần nhà, Bác Sĩ bảo:” Chị nhà thiếu máu, do ăn
uống thiếu dinh dưỡng, lại thêm làm việc quá sức, anh nhớ chăm sóc cho
chị”. Hai hôm sau vợ con về nhà, con nhìn kỹ vào mặt vợ:” Vợ tôi đây sao
? Mắt thâm quần vì những đêm mất ngủ làm thêm, da xanh dờn vì máu đã
biến thành sữa nuôi con, con ba tuổi rồi vẫn còn ôm vú mẹ bú, tay chân
gân xanh nổi lên như những con đĩa nhỏ.
Thầy ơi ! Nếu con CHỈ CẦN
NHÌN LẠI thì vợ con đâu ra nông nỗi này. Sắp đến ngày mồng 08 tháng 03,
con muốn thầy ghi lại câu chuyện này dùm con, để con tặng cho những
người bạn của con, những con người luôn chúc sức khoẻ người khác, ít khi
nào biết chúc sức khoẻ vợ mình.
(Thích Giác Tâm _ Chuyện ngày mồng 08 tháng 03)
Nhiều năm trôi qua rồi con không bao giờ nhìn lại, con cứ nhìn tới, nhìn lên, nhìn xa, nhìn gần, nhìn dáo dác, nhìn lơ đãng, nhìn chằm chặp, nhìn soi mói, nhìn mà không thấy ( thị nhi bất kiến ) nhìn quanh quẩn, chứ ít khi nào nhìn lại. Vợ con sống sao mặc, thiếu đủ gì chẳng hay. Chưa bao giờ con nhìn thẳng vào mặt vợ, không hề biết vợ đang lo gì, cần gì, sức khoẻ thế nào, tiền bạc có đủ chi tiêu trong thời buổi gạo châu củi quế này không ? Từ ngữ mà con luôn nhớ trong ngày: Vô, vô trăm phần trăm anh em ơi ! Cụng ly chúc nhau sức khoẻ… Con chỉ biết cụng ly chúc nhau sức khoẻ với người dưng, hiếm khi nào biết chúc sức khoẻ cho vợ cho con mình. Có năm con không biết ngày 08 tháng 03 là ngày gì .
Chiều nay con đi làm về, thấy nhà cửa vắng tanh, cơm canh chưa có. Con định nổi cáu rồi, thì thằng con nhỏ ba tuổi chạy lẩm đẩm đến nói:” Bố ơi mẹ ngủ từ trưa không dậy “ .
Con hốt hoảng chạy tìm vợ, vợ con đang nằm bên cạnh nồi cháo heo dưới bếp, gương mặt xanh tái, tóc rũ rượi bê bết, hơi thở thật yếu, con hốt hoảng gọi ta xi đưa đến bệnh viện gần nhà, Bác Sĩ bảo:” Chị nhà thiếu máu, do ăn uống thiếu dinh dưỡng, lại thêm làm việc quá sức, anh nhớ chăm sóc cho chị”. Hai hôm sau vợ con về nhà, con nhìn kỹ vào mặt vợ:” Vợ tôi đây sao ? Mắt thâm quần vì những đêm mất ngủ làm thêm, da xanh dờn vì máu đã biến thành sữa nuôi con, con ba tuổi rồi vẫn còn ôm vú mẹ bú, tay chân gân xanh nổi lên như những con đĩa nhỏ.
Thầy ơi ! Nếu con CHỈ CẦN NHÌN LẠI thì vợ con đâu ra nông nỗi này. Sắp đến ngày mồng 08 tháng 03, con muốn thầy ghi lại câu chuyện này dùm con, để con tặng cho những người bạn của con, những con người luôn chúc sức khoẻ người khác, ít khi nào biết chúc sức khoẻ vợ mình.
(Thích Giác Tâm _ Chuyện ngày mồng 08 tháng 03)
2 Mar 2012
CÙNG NHAU XAY DUNG TAM BẢO
AMIDAPHAT
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa quý nam nữ Phật tử
Chùa Giác Long hiện diện nơi vùng quê nghèo,giữ miền sông nước.Điều tâm nguyện lớn nhất của chúng con là mang lại sự an lạc cho bà con nơi đây và ngôi tam bảo mong sao sớm được trang nghiêm để người dân tu tập. Đây là đều mong ước lớn nhất của chúng con. Hiện nay cơ sở vật chất chưa ra dáng Chùa, với tâm thành khẩn nguyện hồng ân Tam bảo va chư tôn đức và các phật tư xa gần quan tâm giúp đỡ cho ngôi tam bảo sớm được.
Trang nghiêm, tâm nguyên rộng lớn ma tài lực không có,kính mong anh, chị, em, bà con Phật tử xa gần quan tâm ủng hộ. Ngày 19 âm lịch tháng 2 này chúng con Khởi công làm cổng và bờ rào xung quanh đất chùa.Mỗi viên gạch ,mỗi tâm thành của quý vị chúng con xin thành kính tri ơn.
AMIDAPHAT.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa quý nam nữ Phật tử
Chùa Giác Long hiện diện nơi vùng quê nghèo,giữ miền sông nước.Điều tâm nguyện lớn nhất của chúng con là mang lại sự an lạc cho bà con nơi đây và ngôi tam bảo mong sao sớm được trang nghiêm để người dân tu tập. Đây là đều mong ước lớn nhất của chúng con. Hiện nay cơ sở vật chất chưa ra dáng Chùa, với tâm thành khẩn nguyện hồng ân Tam bảo va chư tôn đức và các phật tư xa gần quan tâm giúp đỡ cho ngôi tam bảo sớm được.
Trang nghiêm, tâm nguyên rộng lớn ma tài lực không có,kính mong anh, chị, em, bà con Phật tử xa gần quan tâm ủng hộ. Ngày 19 âm lịch tháng 2 này chúng con Khởi công làm cổng và bờ rào xung quanh đất chùa.Mỗi viên gạch ,mỗi tâm thành của quý vị chúng con xin thành kính tri ơn.
AMIDAPHAT.
1 Mar 2012
Thiên đường hay Địa ngục ?
Chuyện kể rằng có một người được dẫn đi tham quan cả 2 nơi: địa ngục và
thiên đàng. Nơi đầu tiên anh ta được dẫn đến là địa ngục.
Đến nơi
anh thấy khá đông người đang sống cùng nhau. Không khí khá nhẹ nhàng và
êm ái. Cũng đủ cả hoa trái, cây xanh, hồ nước. Cũng có các loại thức ăn.
Đủ cả. Điểm đặc biệt là tay mỗi người đều gắn với với 1 chiếc thìa dài
khoảng 1m.
Thế rồi người ta bắt đầu
ăn. Vì chiếc thìa quá dài nên không ai múc thức ăn cho vào miệng được.
Ai cũng đói. Thế rồi người ta bắt đầu la hét, chửi bới. Sau đó là gây
gổ, đánh nhau.
Cả địa ngục trở thành trận chiến với bao tang thương. Anh bạn của chúng ta sợ quá chạy bán sống bán chết.
Sau khi ra khỏi địa ngục, anh ta quyết định đi tham qua thiên đàng.
Trên này cũng vẫn cảnh hoa trái, sông nước và cây xanh. Thức ăn cũng đủ
loại. Và cũng như ở địa ngục, tay mỗi người đều gắn cái thìa dài khoảng
1m. Anh bạn của chúng ta lo lắng và đoán rằng sẽ lại xảy ra đánh nhau.
Rồi tang thương sẽ đến mà thôi.
Tuy nhiên đến bữa ăn, mọi người quây
quần bên nhau. Người nọ múc thức ăn bằng chiếc thìa dài cho người đối
diện. Tất cả cùng vừa ăn, vừa nói chuyện. Trước khi ăn họ cùng nhau tụng
kinh. Họ vô cùng thư giãn và vui vẻ. Họ thưởng thức các món ăn và vui
vẻ bên nhau.An lạc và thảnh thơi. Ăn xong họ cùng nhau đi dạo và ngắm
cảnh, đi nghe Phật thuyết pháp và bàn luận. Nhìn họ sống thật khoan thai
và hạnh phúc.
Trở về trái đất, anh bạn mới ngộ ra rằng, địa ngục và
thiên đường khá giống nhau. Sự khác biệt duy nhất là tình yêu thương và
sự đoàn kết, là sự giúp đỡ và sẻ chia, là tinh thần đồng đội và mong
muốn phụng sự. Anh hiểu rằng sự cho đi là để có tất cả, rằng nếu ta cứ
hết mình vì người khác thì ta đâu có thiếu gì. Rằng hạnh phúc không khó
có như người ta vẫn nghĩ. Rằng muốn lên thiên đàng là có thể lên được.
Được ngay.
Từ đó anh thay đổi cách sống. Từ ngày ấy anh xây dựng
thiên đàng ngay trong gia đình mình, tại cơ quan mình. Và thấy thật đơn
giản và thật kỳ diệu.
Tôi cũng học anh bạn này để xây dựng Vườn Yêu
Thương. Tôi cũng tự thiết lập tịnh độ ngay bây giờ, ngay ở đây, ngay
phút giây này. Tôi cảm nhận rất rõ sự nhiệm màu của cuộc sống và thấy
mình rất hạnh phúc và may mắn. Và bao người quanh tôi luôn biết cảm nhận
sự tuyệt diệu này mỗi ngày. Ai cũng mãn nguyện.
Còn bạn, hiện bạn đang sống ở đâu? Thiên đàng hay địa ngục?
(Nguyễn Mạnh Hùng)
Chuyện kể rằng có một người được dẫn đi tham quan cả 2 nơi: địa ngục và thiên đàng. Nơi đầu tiên anh ta được dẫn đến là địa ngục.
Đến nơi anh thấy khá đông người đang sống cùng nhau. Không khí khá nhẹ nhàng và êm ái. Cũng đủ cả hoa trái, cây xanh, hồ nước. Cũng có các loại thức ăn. Đủ cả. Điểm đặc biệt là tay mỗi người đều gắn với với 1 chiếc thìa dài khoảng 1m.
Thế rồi người ta bắt đầu ăn. Vì chiếc thìa quá dài nên không ai múc thức ăn cho vào miệng được. Ai cũng đói. Thế rồi người ta bắt đầu la hét, chửi bới. Sau đó là gây gổ, đánh nhau.
Cả địa ngục trở thành trận chiến với bao tang thương. Anh bạn của chúng ta sợ quá chạy bán sống bán chết.
Sau khi ra khỏi địa ngục, anh ta quyết định đi tham qua thiên đàng. Trên này cũng vẫn cảnh hoa trái, sông nước và cây xanh. Thức ăn cũng đủ loại. Và cũng như ở địa ngục, tay mỗi người đều gắn cái thìa dài khoảng 1m. Anh bạn của chúng ta lo lắng và đoán rằng sẽ lại xảy ra đánh nhau. Rồi tang thương sẽ đến mà thôi.
Tuy nhiên đến bữa ăn, mọi người quây quần bên nhau. Người nọ múc thức ăn bằng chiếc thìa dài cho người đối diện. Tất cả cùng vừa ăn, vừa nói chuyện. Trước khi ăn họ cùng nhau tụng kinh. Họ vô cùng thư giãn và vui vẻ. Họ thưởng thức các món ăn và vui vẻ bên nhau.An lạc và thảnh thơi. Ăn xong họ cùng nhau đi dạo và ngắm cảnh, đi nghe Phật thuyết pháp và bàn luận. Nhìn họ sống thật khoan thai và hạnh phúc.
Trở về trái đất, anh bạn mới ngộ ra rằng, địa ngục và thiên đường khá giống nhau. Sự khác biệt duy nhất là tình yêu thương và sự đoàn kết, là sự giúp đỡ và sẻ chia, là tinh thần đồng đội và mong muốn phụng sự. Anh hiểu rằng sự cho đi là để có tất cả, rằng nếu ta cứ hết mình vì người khác thì ta đâu có thiếu gì. Rằng hạnh phúc không khó có như người ta vẫn nghĩ. Rằng muốn lên thiên đàng là có thể lên được. Được ngay.
Từ đó anh thay đổi cách sống. Từ ngày ấy anh xây dựng thiên đàng ngay trong gia đình mình, tại cơ quan mình. Và thấy thật đơn giản và thật kỳ diệu.
Tôi cũng học anh bạn này để xây dựng Vườn Yêu Thương. Tôi cũng tự thiết lập tịnh độ ngay bây giờ, ngay ở đây, ngay phút giây này. Tôi cảm nhận rất rõ sự nhiệm màu của cuộc sống và thấy mình rất hạnh phúc và may mắn. Và bao người quanh tôi luôn biết cảm nhận sự tuyệt diệu này mỗi ngày. Ai cũng mãn nguyện.
Còn bạn, hiện bạn đang sống ở đâu? Thiên đàng hay địa ngục?
(Nguyễn Mạnh Hùng)

29 Feb 2012
THẦY VÀ TRÒ CÙNG RA ĐỒNG
dồ dất vào chỗ trồng rau |
đẩy dất về chùa |
thầy trò cùng ra dồng |
lụm dất cày |
bỏ dất và bao |
giờ giãi lao |
26 Feb 2012
VỚT BÓNG MÂY TRẦN
Gió cao nguyên thổi vi vu và dòng suối uốn quanh chảy róc rách trước sự tịch tỉnh của núi rừng. Liên và tôi sau giờ công phu sáng, yên lặng ngồi bên nhau trong căn lều rơm hình bát giác ở lưng chừng đồi, cạnh con đường mòn dẫn lên rừng thông trên đỉnh. Mỗi người đang theo dõi ý nghĩ riêng...Bên kia trời là khoảng không gian thênh thang bát ngát. Đẹp làm sao với những dãy núi đồi chập chùng, tạo thành vòng đai bao cả nửa chân trời, được phủ trên đầu một thảm lụa trắng chạy dài, với những áng mây bồng bềnh. Cả đỉnh đồi mờ trong khói sương hư ảo, khi bình minh chưa ló dạng.
Đôi bạn quen nhau từ dạo đi Phật thất chùa Hoằng Pháp . Liên trạc độ hơn hai mươi, vừa xong đại học, với làn da trắng muốt, nổi bậc trên gương mặt thông minh thanh tú. Tôi đùa gọi cô bé là cò con, vì đi tu Phật thất mỗi ngày cô tắm đến năm lần! Lần đầu tiên gặp tôi, Liên hỏi:
- Sao chị đi tu Phật thất vậy?
Đôi bạn quen nhau từ dạo đi Phật thất chùa Hoằng Pháp . Liên trạc độ hơn hai mươi, vừa xong đại học, với làn da trắng muốt, nổi bậc trên gương mặt thông minh thanh tú. Tôi đùa gọi cô bé là cò con, vì đi tu Phật thất mỗi ngày cô tắm đến năm lần! Lần đầu tiên gặp tôi, Liên hỏi:
- Sao chị đi tu Phật thất vậy?
Tôi đáp:
-Thích nghe các thầy giảng pháp, và tập tìm cái tịnh trong cái động nơi đông đảo người. Còn em , sao còn nhỏ mà thích đi tu hay vậy?
Liên nói gọn trong chua xót:
-Đau khổ vì tình. Đến đây để lắng lòng thanh tịnh.
Câu nói khiến tôi nhìn kỷ Liên hơn. Cô bé khá đẹp, có dáng dấp con nhà tiểu thơ đài các. Sau một thời gian, Liên tâm sự..., Liên yêu lầm lạc một anh chàng ong bướm, thích trăng hoa với quá nhiều người. Trái tim Liên tan nát nên đã tự tử, may mắn được cứu sống. Mặc dù với bao lời khuyên nhũ của mọi người, nào là chữ hiếu với cha mẹ, nào là sự không xứng đáng của đối tượng yêu, nào là tội lỗi khi tự giết mình sẻ không được siêu thoát...Nhưng có lẽ oan trái đã tạo từ đời trước quá nặng, nên Liên cứ đâm đầu vào, và không dứt khoát nổi mối tình, dù chết đi sống lại, Liên vẫn đau khổ không còn muốn sống!
Nghe qua tôi không nói nên lời, lặng lẽ vuốt tóc Liên trong chia sẽ và tự hỏi: “làm sao giúp cô bé nầy?"
Liên có khá nhiều đức tính của con nhà có giáo dục: chân thật, không điêu ngoa trong lời nói và giữ chữ tín. Đó là điểm khó tìm của những người tuổi trẻ mà tôi đã gặp.
Liên đứng dậy đi quanh lều, co duỗi tứ chi , khiến tôi trở về thực tại. Cô lên tiếng:
- Cảnh trí ở đây đẹp quá chị nhỉ, chị dẫn em lên đây chơi thật thích. Có lần buồn em định đi tu, nhưng đi Phật thất mới biết, tu đâu phải dễ. Ba giờ rưỡi sáng đã dậy, không được ăn và nằm phi thời, giờ giấc theo thời khóa. Có trải qua mới biết thương người tu chị ạ. Nội việc cạo cái đầu, mặc áo người tu đã là khó với mình rồi. Vậy mà các thầy của chùa Hoằng Pháp, trẻ tuổi, đẹp trai đi tu hay thiệt!
Tôi nói:
- Đúng vậy em ạ, cho nên lúc nào mình cũng phải ủng hộ sự phát Bồ đề tâm của người tu bằng mọi hình thức. Ngoài việc khổ hạnh, kỷ luật giờ giấc, học kinh chú và Phật pháp; điều quan trọng của chữ xuất gia khác chữ xuất giá ở chổ, là phải nằm trong khung rào cản giới luật của Phật. Có câu "chiếc áo không làm nên thầy tu" là ý nói về giới luật nầy. Nghe các thầy nói, nếu không giữ giới luật tức làm thân Phật chảy máu đó em ạ. Tu đâu phải dễ, do họ có ý chí kiên cường của sự tìm đường giải thoát, chứ đâu phải cứ buồn chán đời là đi tu được.
Dựa tay lên lan can lều, gương mặt Liên buồn xa xăm nói:
- Từ ngày đi tu Phật thất, em thấy được Phật pháp rất hay, nhưng chưa hiểu thông suốt, chị giúp em được không?.
Tôi đáp:
Tôi đáp:
- Em nên hỏi các thầy thì tốt hơn, vì sự hiểu biết của chị rất giới hạn. Tuy nhiên nếu chị biết điều gì, chị sẽ sẵn lòng.
Liên nói:
Liên nói:
- Phật dạy vạn vật giả có, em lại cứ thấy thật không hà, mình phải làm sao?.
Tôi cười:
- Không phải riêng em, nếu gột rữa dễ dàng, ai nấy đã thành thánh hết rồi, đâu có luân hồi mãi. Em nên tập quán xét thường xuyên về bóng trăng trong thau nước. Sở dĩ có bóng trăng, do vì nhân duyên có nước mà có; một khi đổ nước đi rồi, tức lấy nhân duyên đi, thì bóng trăng mất ngay, đấy là giả có. Vạn pháp trên thế gian nầy cũng giống y như bóng trăng vậy.
- Thân ta sở dĩ có, là do nhiều nhân duyên hợp lại: duyên đất và nước qua ăn uống, duyên không khí giúp hơi thở (gió), duyên mặt trời giúp ấm áp (lửa). Nếu đứt mạch máu tim hay não, hay bị siết cổ không còn không khí để thở..v.v...Tức một trong những nhân duyên bị cắt đứt, lập tức sự "có thân" đó, sẽ trở về "không" ngay, nghĩa là chết. Thì tất cả cái vay mượn lại trả về cho nguồn mượn (đất, nước gió lửa). Cho thấy rõ thân là "giả có" mà thôi. Điều nầy giống như bóng trăng đã bị lấy nhân duyên nước đi rồi, thì bóng trăng mất. Nếu thân có thật tánh riêng, không là của mượn qua các nhân duyên khác, thì thân sống đời đời cố định không chết. Từ đó cho thấy rõ, ngay chính thân mình còn không giữ được, huống hồ những vấn đề phụ thuộc nơi thân như: danh lợi, tiền bạc, nhà cửa, bàn ghế, quyền lực, tình yêu.. v.v và.,v.v…cũng là do nhân duyên mà có, giống y như bóng trăng, hay thân.Tất cả cũng đều là bóng, trôi theo mây khói...
Điển hình như thảm họa của Nhật Bản, trước đó một phút thôi, vạn pháp cái gì cũng thấy "có" rỏ ràng. Nhưng sau đó chỉ hai phút, do nhân duyên sóng thần đến, cắt đứt tất cả mọi nhân duyên khác, nên không còn gì cả! Nếu người hiểu đạo thật sự, luôn sống huân tập trong cái thấy đúng như pháp, không chấp chặt mọi thứ trên đời này là "thật có", nên sự việc hết nhân duyên đến, họ không đau khổ. Nếu em quán điều này thường xuyên, đối với tình yêu, một khi không còn đủ nhân duyên nữa, em sẽ ít tuyệt vọng đau khổ hơn, mà không phải hủy hoại mạng sống.
Nghe xong ánh mắt Liên tươi sáng hơn và lại thắc mắc tiếp:
- Tại sao người ta nói chùa là "cửa không" vậy chị?
Tôi đáp:
- Bởi vì cốt tủy của đạo Phật nói về "tánh không" của vạn vật. Chữ "không" trong đạo Phật có nhiều nghĩa, chị tạm nói ba nghĩa chính:
* Thứ nhất là nghĩa bình thường KHÔNG đối với CÓ: vì người phàm phu thường chấp cái gì cũng thật có, nên Phật dạy pháp tương đối nhân quả, cho người có căn cơ thấp tu, để họ còn được hưởng phước báu của hàng trời - người, tránh điều tội lỗi không lọt vào ba cỏi ác đạo: ngạ quỷ ,súc sanh, địa ngục.
* Thứ nhì là TÁNH KHÔNG: vạn pháp không có tự thể riêng biệt hay cố định. Đây là pháp tuyệt đối cho người có căn cơ cao tu để đạt giải thoát sanh tử.
* Thứ ba là KHÔNG TỊCH LINH TRI: tâm chứng của người đạt đạo. Tùy trí sai biệt (linh tri) còn vướng mắc từng loại lậu hoặc sâu hay cạn, chia ra các cấp bậc giải thoát, từ A-la-hán trở đi, đến Bồ tát và Phật quả.
Nghe đến đây con bé vẫn chưa chịu tha, vẻ mặt đăm chiêu hỏi tiếp:
Nghe đến đây con bé vẫn chưa chịu tha, vẻ mặt đăm chiêu hỏi tiếp:
- Em cám ơn chị, chị nói đến đâu, em có thể hiểu được đến đó. Nhưng "tánh không" là tu ra sao mà được giải thoát vậy chị?
Bị hỏi những câu không đơn giản chút nào, tôi ngại chẳng biết cô ta có thể tiếp thu được bao nhiêu mà trả lời, nhưng nhớ lại cô đang đau khổ cần Phật pháp, nên tôi cũng mặc kệ chìu ý, nhiệt tình trả lời tiếp:
- Câu nầy thật không dễ cho cả kẻ đáp và người nghe. Hai chữ "tánh không" nầy các tôn giáo khác chưa bao giờ nói đến, và là cốt tủy của Phật giáo. Tánh không tức vạn pháp không có tự thể, hay nói cách khác là vạn pháp không có gì là chính nó cả.
Vạn pháp sở dĩ hiện hữu "có", đều phải nhờ qua khâu "nhân duyên" phối hợp. Bởi vì chính nó chẳng phải có, do sự phối hợp tạo, nên chỉ có thể hiện ra :"tạm là có " mà thôi, đạo Phật gọi là " giả tướng". Như sự giải thích tạm có thân ở câu hỏi đầu.
Vạn pháp sở dĩ hiện hữu "không", cũng đều phải nhờ qua khâu "nhân duyên" phối hợp. Bởi chính nó chẳng phải không, do sự phối hợp tạo, nên chỉ có thể hiện ra: "tạm là không" mà thôi.
Điều này nói lên, cả hai "cái có" và "cái không" đều là huyễn ảo của sự chuyển hóa. Vì không có thật tánh cố định như vậy, cho nên nói vạn pháp là "vô ngã" (không có cái tôi, hay không là chính nó).
Trong Tâm kinh dạy “sắc chẳng khác không", nghĩa là cái mà ta gọi là "có" vốn không có tự tánh, chỉ là duyên giả hợp nên nó vốn là "không”. Ví dụ: hoa kết hợp bởi những thứ không là hoa. Do nhân duyên của đất trồng, phân bón, nước, không khí, ánh sáng, người chăm sóc, nên một đóa hoa hình thành, đó là “Không chắng khác sắc”. Sau một thời gian, khi duyên hết, thì đóa hoa kia sẽ héo úa, biến chuyển và trở thành rác, đó là “sắc chẳng khác không”. Lại ví như đá không có tính lửa, nhưng vì nhân duyên của sự va chạm, từ cái không đã sanh ra lửa (sắc). Thế nên, trong chân không có sẵn diệu hữu (cái có vi diệu) bên trong; và trong diệu hữu lại có sẳn chân không bên trong.
Để Liên hiểu rõ, tôi bước ra lều, với tay hái một trái xoài trồng bên cạnh suối đưa cho Liên và nói tiếp:
- Đây là trái xoài, vì hột xoài không có tự tánh cố định, nên nhờ nhân duyên " đất, nước, gió, lửa", hột xoài nảy mầm thành thân cây xoài, và vì thân cây không có tự tính cố định, nên nhờ nhân duyên.....lại cho ra hoa....,rồi chuyển hóa tiếp cho ra trái. Nếu không, hột xoài vĩnh viễn cố định chỉ là hột xoài mà thôi.
- Đây là trái xoài, vì hột xoài không có tự tánh cố định, nên nhờ nhân duyên " đất, nước, gió, lửa", hột xoài nảy mầm thành thân cây xoài, và vì thân cây không có tự tính cố định, nên nhờ nhân duyên.....lại cho ra hoa....,rồi chuyển hóa tiếp cho ra trái. Nếu không, hột xoài vĩnh viễn cố định chỉ là hột xoài mà thôi.
Chính nhờ tánh không đã sanh ra vạn pháp.Cũng như vô minh, không chính là vô minh, không thật có, nên phàm phu có thể tu tiến thành thánh nhân. Nếu không, vô minh lại vĩnh viễn là vô minh. Mọi thứ khác (vạn pháp) có lý luận cũng giống y như thế. Bởi thế, trong kinh Kim cang nói: "cái gọi là chúng sanh, không phải là chúng sanh, nên tạm gọi là chúng sanh".
Người chứng đạo, thấu triệt và sống được với các pháp thế gian trong sự huyễn hóa, chẳng phải có, mà cũng chẳng dính mắc vào không, trong tâm họ không chấp vào cả hai bên đối đãi "có không". Tâm họ không bận tâm khởi ra những sự phân tích so đo của ý thức phân biệt, họ sống trong sự "rỗng lặng tỉnh giác", an nhiên trước lẻ thật của vạn vật đang tồn tại một cách hư dối: đó là trí huệ Bát nhã, là giải thoát. Giải thoát vì họ hiểu được và thực hành được năm uẩn đều là không, nên vượt được hết thảy mọi khổ ách.
Vừa nói đến đây Liên buột miệng đáp:
- Thế thì cái đau khổ, bản chất không thật sự có, do vì tai nạn của tư tưởng đóng khung mình trong đó, cho rằng mình đau khổ, nên mới có đau khổ.
Tôi vổ tay cười lớn:
- Ô hay, chính xác như vậy. Em thật thông minh nhạy bén lắm, nói một thấu suốt hai.
Liên nói:
- Em cám ơn chị rất nhiều, từ nay em sẽ mở mắt, cố gắng dùng trí huệ của Phật pháp phá vô minh của mình. Em sẽ đến chùa học hỏi Phật pháp và làm phật sự. Dùng đời sống của mình làm lợi ích cho tha nhân. Em sẽ có cuộc sống đổi thay chị ạ.
Tôi đáp:
- Em hiểu đươc như vậy là quá tốt. Chị rất mừng cho em. Nhưng khi em đến chùa làm Phật sự, vì hoàn cảnh cha mẹ em có địa vị quá cao trong xã hội, chị sợ em vấp phải một điều. Nếu mình có bất cứ điều gì hơn người về mọi thứ, chẳng hạn như: tài giỏi, danh vọng, giàu đẹp, bằng cấp, quyền lực, thông minh hay địa vị ....đến đâu đi nữa. Tất cả những thứ đó mình nên bỏ ngoài cổng chùa, vì sự tự mãn về trí thế gian hơn người của mình càng cao, thì mình càng u mê với trí huệ Bát nhã càng nhiều, và đã đi ngược chiều với Phật đạo, đó chính là ma vậy.
Liên nói:
- Ý chị nói về chữ DANH trong ngũ dục thế gian "tài, sắc, danh, thực, thùy" phải không?.
Tôi cười:
- Đúng rồi, con người thường bị vướng nhất là chữ danh. Như kỳ rồi quý thầy giảng về Ngài Ngộ Đạt quốc sư, chỉ vì hãnh diện rất vi tế khởi ra trong tâm về chiếc ghế trầm hương của vua ban, mà Ngài bị mất phước, long thần hộ pháp không còn hộ trì nữa. Nỗi oán hận của Triệu Thố đã theo Ngài sát mười đời nhưng không hại được, nên chụp ngay cơ hội đột nhập vào thân Ngài, thành ghẻ mặt người báo thù. May nhờ có vị A la hán gở mối oan khiên. Em thấy rằng, ngay cả một bậc có mười đời làm Hòa thượng, đức độ và đạo hạnh sâu dầy, chỉ vì sơ hở khởi chút danh trong tâm mà bao nhiêu phước đức tu hành còn bị đốt cháy, sụp đỗ.
Và lịch sử của vua Lương Võ Đế cũng thế, vua chỉ mong Tổ Đạt Ma khen Ngài một tiếng "cất chùa, độ Tăng hàng vạn, phước đức thật vĩ đại", nhưng Tổ lại phán: "chẳng phước đức gì cả", để giúp vua chuyển tâm vướng bận vào danh. Vì vua kẹt vào danh của cái tôi mấy chục kí lô, nên phước báu của vua làm chỉ gói gọn nặng trong mấy chục kí mà thôi. Nếu vua hiểu được tánh không và tướng không của kinh Kim cang "phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", thì những "tướng có" nơi bao ngôi chùa vua xây đã không bị dính mắc trong tâm của vua. Bấy giờ phước của vua sẽ vô lượng trùm khắp hư không, bởi lúc đó vua thực hiện được hai chữ “vô trụ" trong kinh: “dù đem cả bảy báu trong tam thiên đại thiên thế giới cúng dường, không bằng trì bốn câu kệ trong kinh". Bốn câu kệ dạy không chấp vào tướng của sự việc mình làm, đó là ý Tổ Đạt Ma muốn dạy vua Lương.
Vì thế , người phàm phu như mình, thường bị chữ danh làm đẩy đi lạc hướng của tâm ban đầu. Thấy gương người xưa, nếu đến chùa, đừng vì háo danh vặt, làm những điều tự mãn, vị kỷ, chẳng được phước đức gì, đôi khi chỉ gây thêm nghiệp đọa lạc là đằng khác đó em ạ.
Liên vui vẻ đáp:
- Vâng, em sẽ cẩn thận nhớ kỹ lời chị nói. Đã lâu lắm rồi, hôm nay là ngày vui nhất của em. Em thương chị quá đi, chị như người chị và cũng như người mẹ của em. Tấm lòng chị lo lắng dẫn em du ngoạn núi, giúp em nguôi ngoai khổ đau, để em sửa sai những lầm lạc của mình, không vì tình yêu mà rồ dại hủy hoại thân mình. Em đã nhận ra cuộc đời đáng sống biết bao, còn quá nhiều thi vị với pháp Phật vi diệu! Ô kìa chị ơi, có tiếng kẻng báo giờ ăn sáng. Thôi chị em mình đi ăn chị nhé, kẻo mọi người đợi. Mình sẽ bàn luận Phật pháp vào dịp khác nữa nha chị.
Đôi bạn cùng nhau xuống dốc đồi, vầng thái dương đã lên cao tự bao giờ và chim đã ra khỏi tổ hót líu lo, thương cho cánh chim không được hưởng pháp lạc như mình! Từng chữ một A DI ĐÀ PHẬT rơi nhẹ, hình dung rõ, vang lên trong tâm thức bằng sự tỉnh sáng, với tánh thấy - tánh nghe - và tánh biết. Mỗi câu Phật hiệu đỉnh đạt, âm thầm, vững chãi từng tiếng một, trong rổng lặng chánh niệm. Mọi ý niệm đã lùi xa vì quá ư hư dối và nhảm nhí, nên không còn chổ đứng. Ôi, mầu nhiệm thay từng bước đi, cả một chân trời hạnh phúc hiện ra trong thanh tịnh.
14 điều Phật dạy
- Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
- Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã
- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
- Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ, trí tuệ
- Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung
- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí
25 Feb 2012
[Ảnh] Mùng 1 tết 2012
![]() |
Cậu bé đang ước mơ |
![]() |
Thầy trò nói chuyện |
![]() |
Bánh mứt ngày tết |
![]() |
Mai vàng tô thắm |
![]() |
Bữa cơm thanh đạm ngày xuân |
![]() |
Phật tử lì xì thầy |
![]() |
Cổng chùa ngày tết |
![]() |
Phật tử cúng bái |
Ngày xuân là ngày mà con người ta đi chùa cầu chúc cho nhau hạnh phúc, một năm làm ăn phát tài phát lộc
Chúc tất cả một năm mới bình yên và vạn sự như ý
Thích Minh Tuấn
( Chùa Giác Long )
Sự tích Phật Bà Quan Âm
Quán Âm Bồ Tát là danh hiệu của
một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện lẫn lộn ở cõi ta
bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan
Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v…
Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu.
Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện
nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhựt Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng
là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”.
Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở
vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì
đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn
ức nào mà kể. Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của
Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có
biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài.
Theo kinh truyện để lại, Ngài
phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm
thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần
cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v…
Hiện nay đời còn truyền tụng hai
kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính,
kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được
chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).
SỰ TÍCH THỨ NHỨT:
QUÁN ÂM THỊ KÍNH
Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu
đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu
chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca
giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần
khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có
chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì
không thể nào đặng.” Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị
tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu
trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao.
Ấy là phép Phật định vậy.
Vâng lịnh của Đức Phật Tổ chơn
linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là
Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai
ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính,
dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để
có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì
gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ
chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình.
Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị
Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã
xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ
khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất
giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha
mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: Cha
mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ
cha đó là đủ rồi. Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên
chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng
mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một
mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.
Một ngày kia nàng đương ngồi may,
chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm
nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp
nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng
ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc
một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất
lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương
lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ
mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở,
cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ
cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết
chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời
vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới
tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi
lãnh con về.
Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt,
tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng
ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và
chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng
một lời nào.
Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã
muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai
là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng.
Vì nàng là một người đàn bà chân
chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm
thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm
mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không
nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng
quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về
độ lại mẹ cha.
Một hôm, nàng lén cải trang nam
tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà
sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.
Từ khi nàng lìa gia đình ra đi
thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn
nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ
đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y.
Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang
thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì
một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công
danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm.
Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.
Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình
cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là
nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô
trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng
nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay
lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi,
làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi.
Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng
phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình
với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính
Tâm hoàn tục kết duyên với mình.
Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa
nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng
đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc.
Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến
nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò
một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra
hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng
cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời
không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên
sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.
Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi
và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh
cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn.
Thấy thế hương đảng cũng niệm
tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài
tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa.
Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày
mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài
nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho
ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy
giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi
bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.
Hết thời trì kinh thì sãi Kính
Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính
Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay
như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?”
Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch
sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử rằng cứu đặng một người, phước đức
hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con
không có ý chi hết.”
Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa.
Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã
có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi
thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi
Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một
bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như
lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.
Xem thơ xong, sư ông rất ngậm
ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay
sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình.
Tin ấy truyền ra hương lân nhóm
lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí
về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ
phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ
nhục.
Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì
thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị
Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này
đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn
phát nguyện tu hành.
Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc
quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm,
Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.
Ngày nay, người xứ ta và người
Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc
đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ
ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là
con của Thị Mầu.
SỰ TÍCH THỨ NHÌ:
TÍCH BÀ DIỆU THIỆN HAY QUAN ÂM NAM HẢI
Theo sự khảo cứu của nhà bác học
Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài
hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu
Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng
sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây
có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu
(Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi
xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía
Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra),
phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm
cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày
cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng
hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng
hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin
nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây.
Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua
nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ.
Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một
vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng
hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt
sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này
ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên
vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua).
Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho
hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ
ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế
trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi
cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế
nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng
kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng
quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu,
tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền,
bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh
rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi.”
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có
Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh.” Nghe vậy nhà Vua
lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và
nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng.
Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà
chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý
thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu,
nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou),
tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh
ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi
khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của
nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc
nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng
làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết
được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi
sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về
đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt.
Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương
tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như
thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin
Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu
tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa
xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia
lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ
lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy
mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở
lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không
hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng
không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy
ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu
sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh
giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa
giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm
thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng
(thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm
cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng
rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và
cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung.
Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự.
Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng
phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội
bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu
Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy
một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại
nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh
tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước
mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy
đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh
Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh
khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến
đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị
giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại
trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp.
Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều
đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng
mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt
chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần.
Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán
rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu
Thiện.” Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy
làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện
ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao
Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi
thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương
Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng
sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh
Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra
nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có
một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng
Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ
chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai
quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy
nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần
sanh.” Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh
phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng
quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật
Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng
liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa
một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là
Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng
đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng
mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe
tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm
đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện
ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn
thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần
Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu.
Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì
quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ
Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái
xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay
đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử
một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ
tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã
xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con
cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông
chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc
ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra
biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định
dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách
không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn
thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục
huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng
quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử
hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha
đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ
Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng
bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư
bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà
vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai
món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món
vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư
và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai
Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân
của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư
dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm
đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích
khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt
động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình
nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị
biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em
mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con
đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch
mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh
nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn,
Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình
bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên
liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả
của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và
hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có
nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật
ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít
vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì
nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin
sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt.
Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư
cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy
vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng
đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh
ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng
hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng
trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép
thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy
Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là
con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho
con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong
thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình
dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của
Bồ Tát vua cùng hoàng hậu nhứt định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh
mình trần tục tìm đàng thiên thai.
( Phật Giáo Việt Nam )
Subscribe to:
Posts (Atom)